Từ thị trấn Sông Mã (huyện Sông Mã – Sơn La), sông Mã chảy về hướng tây chừng 30km đến cửa khẩu Chiềng Khương để đổ vào đất Lào. Từ đây sông Mã có tên Nậm Mã. Câu chuyện một bản làng bên bờ Nậm Mã, trăm năm với nghề dệt vải nối tiếp hành trình của dòng sông trên đất Lào.

Trước một cua quẹo lưng chừng núi trên đường từ Sốp Bâu đi Sắp Hao, nhìn xuống bờ sông là một bản nhà sàn rất đẹp, trông trù phú và cổ xưa.

Bố là Bi Bo
Buổi trưa. Bản vắng lặng, nghe rõ tiếng khung cửi lách cách dệt vải dưới nhà sàn. Khi chúng tôi ghé lại chụp ảnh, quay phim, các bà, các chị đang dệt niềm nở hỏi han, nhưng chúng tôi không biết gì, chỉ nói được “Việt Nam, Việt Nam”, khiến khách và chủ chỉ nhìn nhau cười. Mấy người trai tráng gùi đầy bầu bí, tay cầm những xâu bắp, họ đi nương về, tò mò ghé xem.

Đồng nghiệp Việt Đức nỗ lực “trò chuyện”, chỉ tay vào miệng đang há lớn, rồi chỉ vòng quanh mọi người, “Việt Nam, Việt Nam?...” Thế mà có người hiểu ra. Người này chạy vội một lúc rồi dẫn đến một ông già. Chỉ vào ông già anh ta cũng hô lớn, “Việt Nam, Việt Nam!” Như chìm xuồng vịn được cọc, cả ba chúng tôi xúm vô ông già hỏi đủ thứ. Ông già bối rối thấy rõ, lắp bắp một lúc chỉ nói được: “Bố là Bi Bon, bố chào các con!”

Thế là chúng tôi theo về nhà bố Bi Bon. Cho đến lúc đã ngồi bình tĩnh giữa nhà sàn uống “rượu ngâm con ong của bố”, câu chuyện vẫn cứ ngắc ngứ. Xem ra ông cụ có vẻ hiểu được những câu hỏi của chúng tôi, nhưng không trả lời được bao nhiêu. Sau một hồi tìm kiếm trong mớ sách vở lộn xộn, ông già mang ra cuốn sách mỏng Tự học tiếng Việt, vừa trò chuyện, vừa tra sách.

Đã 74 năm sống trên đời, bố Bi Bon biết được Việt Nam gần lắm, chỉ ở cuối Nậm Mã này thôi, nhưng chưa một lần nào qua đó. Cách đây 21 năm, có toán công nhân Việt Nam qua làm đường, vì mến họ vui tính, ông lân la học lóm tiếng Việt rồi mua cuốn sách mỏng này về tự học thêm, thế là có được ngoại ngữ, để hôm nay làm thông dịch cho chúng tôi.

Dệt vải thời trang

Dẫn chúng tôi một vòng quanh bản, bố Bi Bon giới thiệu với mọi người: “Các con bố đấy, từ Việt Nam sang đấy!”

Dân bản Khăm Khăm sống chủ yếu dựa vào nương rẫy, trồng nếp nương, trồng bông, ngô, sắn, chăn nuôi gia súc, chủ yếu là trâu. Nhưng phụ nữ Khăm Khăm còn nổi tiếng với nghề dệt thổ cẩm. Không như phụ nữ ở những bản Lào khác, cũng giỏi nghề dệt nhưng chủ yếu là để làm đẹp cho mình, cho họ tộc nhà chồng, thì ở đây, hơn trăm năm qua, phụ nữ bản là những nghệ nhân chuyên sản xuất và cung cấp mặt hàng váy Lào “fashion” cho thị trường Sầm Nưa và cả Viêng Chăn.

Cũng là khung dệt thủ công bằng gỗ tự chế, nhưng những cô bé mười, mười hai tuổi ở bản này đã có thể dệt được những tấm váy 1,7 x 0,8m với rực rỡ màu sắc, hoa văn, không tấm nào giống tấm nào. Theo bố Bi Bon một vòng qua 74 nóc nhà, thì ít nhất dưới sàn mỗi nhà cũng có từ 1 – 4 khung dệt. Một cô bé vừa đi học vừa dệt, cũng chỉ trong ba ngày là được một tấm váy, giá hiện tại khách đặt và đến tận bản nhận là 40.000 kíp/tấm. Chúng tôi nhờ bố Bi Bon hỏi mua vài tấm về làm kỷ niệm. Ông lắc đầu: “Không bán được, vải mình dệt nhưng là của người ta mua rồi”.

Hoa đẹp Chămpa…

Chúng tôi nhận lời ăn cơm trưa tại nhà bố Bi Bon. “Chỉ có cơm thôi, không có nhiều đồ ăn. Người Lào ít ăn con thú lắm”, nói thế nhưng ông già vội vã xuống bếp cùng bà vợ lo bữa ăn. Hai vợ chồng ông già đang sống cùng vợ chồng người con cả.

Cô con dâu đi nương, các cháu đều đi học đến chiều mới về. Chỉ còn lại nhà anh con cả. Hỏi ra mới biết, anh con cả chính là trưởng bản Khăm Khăm, vì buổi sáng có cán bộ trên huyện xuống bản, nên anh không đi nương với vợ. Trưởng bản Poong Chăm đã 45 tuổi, sáu con mà trông còn rất trẻ, trắng trẻo, đẹp trai, lui cui giúp mẹ và bố làm bếp, chốc chốc lại lên nhà trên cười hiền khô.

Bữa cơm dọn ra, những thanh niên đến chơi cũng thành khách. Mấy anh thanh niên thì thào trao đổi một lúc, người thanh niên được giới thiệu là con rể ông già, tên Khăm Đen, vội chạy về nhà mang đến hũ rượu cần gần một vòng tay ôm. Ghè rượu bằng đất nung, sứt miệng, ám khói trông cũ càng. Sau khi cạy nút đậy bằng đất nhồi trấu, đổ đầy nước vào, vì là khách nhiều tuổi nhất nên tôi được bố Bi Bon mời cùng vít cần trước tiên.

Đang trong cái nắng 37 độ, dòng rượu đẫm ngọt lan toả cái mát lạnh khắp cả người. Buông cần ra, chợt thấy từ mặt người cho đến mọi vật bỗng bừng sáng lóng lánh. Cũng từng nếm qua rượu cần của người Ê Đê, Ba Na Tây Nguyên; người Mường Hoà Bình, tôi vẫn chưa thấy đâu có rượu cần ngon thế này, “hiệu quả” thế này…

Sau lần vít cần thứ ba, già Bi Bon vào buồng đem ra cây khèn. Sau một phút im lặng như nhập đồng, ông già bắt đầu thổi. Tiếng khèn làm cả cuộc vui lặng phắc, ngẩn ngơ. Mãi chiều muộn chúng tôi mới rời được bản Khăm Khăm trong lưu luyến bắt tay, vái chào những con người hồn hậu, trong trẻo và mến khách này.

Trước mặt là con sông Nậm Mã. Chúng tôi đang xuôi dòng về phía Việt Nam, về với nhà mình. Thế nhưng ra đi mà có cảm giác mình đã để lại tại bản Lào trăm năm này một cái gì đó vô hình nhưng thật đáng quý...

Bè xuôi sông Mã

Có lẽ trong vài chục năm trở lại đây, nhiều người Việt biết đến con sông Mã là nhờ vào hai câu thơ Quang Dũng trong bài Tây Tiến: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi” và “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Khi về lại Việt Nam, con sông Mã chảy vào cửa khẩu Mường Lát, huyện miền tây của tỉnh Thanh Hoá.

Rừng luồng lớn nhất Việt Nam

Mường Lát, cùng với huyện Quan Hoá kề cận, thêm vào một phần của huyện Mai Châu, tỉnh Hoà Bình, đã tạo nên một vùng rừng tre luồng lớn nhất Việt Nam, rộng hơn 60.000ha, nằm ngay thượng nguồn của dòng sông Mã. Đây cũng chính là nơi trung đoàn Tây Tiến được thành lập năm 1947, mà từ đó bài thơ của Quang Dũng ra đời.

Cư ngụ trên khu vực miền cao này phần lớn là đồng bào dân tộc Mường. Từ ngàn xưa và cho đến bây giờ vẫn thế, tre luồng không chỉ là nguồn sống chủ yếu, nó còn hiện diện trong mọi chi tiết sống của đồng bào Mường, từ những chiếc coọng (xa quay) đưa nước lên nương cao, chiếc cối giã gạo bằng sức nước...

Do địa thế núi rừng quá hiểm trở nên đoạn sông Mã từ Mường Lát chảy về Quan Hoá không có đường bộ đi dọc sông, cũng không thể xuôi sông bằng thuyền bè vì đá ngầm, đá nổi lởm chởm, thác nọ nối thác kia. Chỉ có con đường bộ duy nhất men theo sông Luông, một chi lưu của sông Mã.

Nối với sông Mã ở ngã ba Quan Hoá, bắt đầu từ Lào ở cửa Na Mèo, con sông Luông chảy xuyên ngang giữa trung tâm vùng tre luồng lớn nhất Việt Nam này, nó là huyết mạch để cây luồng ra được khỏi chốn rừng sâu hẻo lánh, núi non chớn chở. Nhưng để đi xa hơn nữa, để ra được tận biển, chính là nhờ vào con sông Mã.

Sông Luông không sâu, lại nhiều ghềnh đá. Cây luồng chỉ có thể xuôi sông vào những tháng mùa mưa nước đầy. Thích nghi với điều kiện thiên nhiên ấy, vòng đời của cây luồng cũng vừa kịp khép kín sau một năm tuổi, khi thân luồng đã già dặn, chắc chắn, đủ cứng cáp để cống hiến cho cuộc sống con người, cũng đúng vào những tháng mưa.

Và, cứ như tạo hoá cũng thấu hiểu được cảnh huống sống của con người, cứ từng chặng một, sông Luông có những khoảng rộng bất ngờ. Dân đi luồng gọi đây là những búng nước. Búng nước là những địa điểm lý tưởng để cây luồng tập kết đến đây mà kết bè.

Nghề can trường

Kết bè luồng là một nghề không phải ai cũng làm được. Nhưng, lái bè mới chính là một nghề chỉ dành cho những đấng nam nhi can trường. Có thể nói mỗi chuyến xuôi bè là một cuộc vật lộn với sông nước. Đây không chỉ là cuộc đọ sức mà còn là cuộc đọ trí, một thách thức của thiên nhiên hoang dã với sức lực và trí thông minh của con người.

Ở đây, không phải con người tìm cách để thắng thế trước thiên nhiên, điểm mấu chốt là họ phải có hiểu biết thấu đáo và cả sự nhạy cảm của trực giác, để luôn luôn thích nghi với thiên nhiên trong mọi hoàn cảnh, kể cả những trở chứng thất thường nhất. Sự khôn ngoan này không thể chỉ dựa vào đầu óc, kinh nghiệm của một thế hệ, nó là trí khôn kết tinh từ nhiều thế hệ đi trước truyền nối.

Chẳng hạn như ở đoạn dòng sông đi qua Hang Ma, chỉ cần sự điều khiển không chính xác của lực đẩy một mái chèo, là có thể cả mảng bè phải vướng cạn. Ở đây còn đòi hỏi sự ăn ý tuyệt đối giữa người kết bè và người lái bè. Đi qua những búng nước trên sông Luông, trò chuyện với những người kết bè; đi dọc sông Luông với những người lái bè mới biết, không có một bè luồng nào giống nhau, cả số lượng cây cho mỗi mảng và số mảng cho mỗi bè. Bởi vì, dòng chảy của sông từng mùa, từng ngày và cả buổi sáng, buổi chiều của một ngày cũng không giống nhau, trong khi bè chỉ có thể xuôi được sông là nhờ vào sức nước.

Đường về xuôi

Ngã ba, nơi con sông Luông đổ ra con sông Mã nằm kề thị trấn Quan Hoá, là điểm tập kết luồng lớn nhất của toàn vùng, để từ đó cây luồng về xuôi. Dù khi xuôi về đến đây, con sông Mã đã rộng và sâu, nhưng sự hung dữ thác ghềnh của nó thì vẫn chưa hề bớt đi. Để đương đầu với sóng nước sông Mã bắt đầu từ đoạn này, bắt buộc bè xuôi phải đủ lớn, kết lại từ nhiều mảng. Người ta tính toán cho mỗi cuộc xuôi sông không phải là bao nhiêu ngày, mà là con nước sông đang ở vào tình trạng nào.

Xuôi, cũng không có nghĩa là thong dong trôi theo dòng chảy của sông. Mỗi cuộc xuôi bè đều phải được dự tính chi li từ thời điểm khởi hành, thuỷ trình cho từng đoạn sông một. Bây giờ dân đi bè đã có được chiếc điện thoại di động. Nhưng qua phương tiện liên lạc hiện đại này cũng chỉ giúp cho người nhà biết là họ đang đến đâu để mà yên tâm chứ cũng không thể biết trước đến khi nào thì kết thúc cuộc thuỷ trình. Bởi vì, sự trở chứng của sông là vô lường.

Với mạng lưới giao thông bộ đang phát triển, cây luồng đang chuyển sang con đường về xuôi theo đường bộ. Có thể dự đoán đến một ngày nào đó sông Mã sẽ không còn bè xuôi. Đây là dấu hiệu đáng mừng. Song, những ai từng gắn bó với dòng sông này hẳn cũng sẽ có chút ngậm ngùi vì không còn bè xuôi sông Mã...

Phần 1: Đi dọc sông Mã: Lần lên tìm đầu nguồn
Phần 2: Đi dọc sông Mã: Trăm năm bản dệt Khăm Khăm
Phần 3: Đi dọc sông Mã: Nơi sông Mã gặp biển

Du lịch, GO! - Theo SGTT