Khu lưu niệm mộ cụ Phan Chu Trinh tọa lạc tại số 26 đường Tân Sơn Nhất, phường 4, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí MInh, nằm gọn trong một khuôn viên rộng 2.500m². Từ ngoài đi vào, đầu tiên là một ngôi đền hình bát giác, có hai tầng mái, bên phải ngôi đền là phần mộ cụ Phan hình chữ nhật, có tấm bia khắc chữ Hán: “Việt Nam chính trị Cách mạng gia Phan Châu Trinh tiên sinh chi mộ - Quốc dân đồng kính tặng”.

Trước đầu mộ là một đỉnh hương xây bằng xi măng, sau mộ là tấm bia bằng đá cẩm thạch cao 3,6m, rộng 3m. Nội dung bia viết về thân thế sự nghiệp của cụ Phan do cụ Huỳnh Thúc Kháng, người bạn chí thiết của cụ Phan soạn thảo ngày 2/8/1926.

Bên trái đền thờ là nhà lưu niệm cụ Phan, ở đây trưng bày toàn bộ những dị vật, di bút, trước tác của cụ và những tư liệu, hiện vật về cuộc đời hoạt động cách mạng của cụ cũng như phong trào yêu nước của nhân dân và các sĩ phu yêu nước đương thời.

Phan Chu Trinh là một nhà thơ, nhà văn, chí sĩ yêu nước thời cận đại của Việt Nam, người mở đầu cho phong trào Duy Tân và có công lớn trong việc lập Đông Kinh Nghĩa Thục.  Phan Chu Trinh còn có hiệu là Tây Hồ, Hy Mã , tự là Tử Cán. Ông sinh năm 1872, người làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Thân sinh là Phan Văn Bình, một võ quan nhỏ, từng tham gia phong trào Cần Vương trong tỉnh, làm chuyển vận sứ phụ trách việc quân lương, nhưng về sau trở thành nạn nhân của sự chia rẽ nội bộ.

Năm 1888, thân phụ ông mất khi ông mới 16 tuổi. Năm 1892, ông đi học và nổi tiếng học giỏi. Bạn cùng học với ông là Huỳnh Thúc Kháng (kém ông 4 tuổi).

Năm 1900, ông đỗ Cử nhân. Năm 1901, ông đỗ Phó bảng, đồng khoa với tiến sĩ Ngô Đức Kế và Nguyễn Sinh Sắc. Năm 1902, ông vào học Trường Hậu bổ, sau ra làm Thừa biện Bộ Lễ. Ít lâu sau ông bỏ quan, hoạt động cứu nước. Ông kết giao vơi nhiều sĩ phu yêu nước như Hùynh Thúc Kháng và Phan Bội Châu .Ông và Phan Bội Châu tâm đắc về nhiệt huyết cứu nước , nhưng ko tán thành đường lối của Phan Bội Châu dựa vào Nhật để đấu tranh vũ trang chống Pháp . Ông cùng các bạn đi khắp Việt Nam cổ vũ đấu tranh và liên kết trí thức, văn sĩ yêu nước. Năm 1905, ông sang Nhật Bản rồi sang Pháp chủ trương dựa vào Pháp để tiến hành cải cách, thực hiện tự do dân chủ, lật đổ chế độ phong kiến, làm cho dân giàu, nước mạnh, tiến lên giải phóng dân tộc.

Năm 1906, ông bí mật sang Nhật Bản gặp Phan Bội Châu, khởi xướng duy tân, cải cách nước nhà. Sau khi về nước, ông ra sức tuyên truyền chủ trương cải cách của mình và đã trở thành một trong những người lãnh đạo xu hướng cải lương hồi đầu thế kỷ 20.

Tháng 7/1907, Phan Chu Trinh ra Hà Nội tham gia giảng dạy ở Đông Kinh nghĩa thục, những buổi diễn thuyết của ông có rất đông người đến nghe. Ông mở rộng giao du với cả một số người Pháp.

Năm 1908, vụ Hà thành đầu độc ở Hà Nội và phong trào chống thuế của nông dân Trung Kỳ nổ ra và bị thực dân Pháp đàn áp, ông bị bắt đày ra Côn Đảo. Đến năm 1910, nhờ có Hội Nhân quyền Pháp can thiệp, ông được trả lại tự do, nhưng bị quản thúc tại Mỹ Tho. Tuy nhiên, ông viết thư cho Toàn quyền đòi được sang Pháp hoặc trở lại Côn Đảo, nhất định không chịu cảnh bị giam lỏng ở Mỹ Tho. Vì vậy, nhân dịp có nghị định ngày 31 tháng 10 năm 1908 của chính phủ Pháp về việc lập một nhóm giảng dạy tiếng Hán tại Pháp, năm 1911, chính quyền Đông Dương cử một đoàn giáo dục Đông Dương sang Pháp, có cả Phan Chu Trinh và con trai là Phan Chu Dật.

Sang Pháp, ông ở nhà luật sư Phan Văn Trường, mở một hiệu sửa ảnh, sống thanh bạch (Nguyễn Tất Thành cũng từng làm việc tại cửa hiệu của ông). Ông tìm cách liên hệ với những người trong Liên minh Nhân quyền và Đảng Xã hội Pháp. Ông cũng có những cuộc tiếp xúc với các nhóm Việt kiều và các đảng phái tiến bộ, thảo luận vấn đề độc lập, tự do, dân chủ. Năm 1914, ông lại bị bắt giam vì tình nghi có liên hệ với nước Đức. Nhờ sự can thiệp của Đảng Xã hội Pháp, nên ông mới được thả ra.

Ngày 19 tháng 6 năm 1919, ông cùng với Phan Văn Trường, Nguyễn Tất Thành soạn "Bản Yêu sách của nhân dân An Nam" gửi cho Hội nghị Versailles, ký tên chung là Nguyễn Ái Quốc, làm nổ ra "quả bom chính trị" chấn động tại nước Pháp.

Năm 1922 khi vua Khải Định sang Pháp dự đấu xảo Marseille, ông viết một bức thư dài buộc tội Khải Định 7 điều và khuyên vua về nước gấp, đừng làm nhục quốc thể (quen gọi là Thất Điều Trần hay Thư Thất Điều).

Năm 1925, ông về Sài Gòn tiếp tục hoạt động theo xu hướng cải lương, kêu gọi dân quyền, dân sinh, dân khí.

Ông mất ngày 24/3/1926 tại Sài Gòn. Sau khi mất, tinh thần yêu nước của ông vẫn cổ vũ phong trào trong nước, đặc biệt là trong thanh niên, học sinh đã dấy lên phong trào đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu và để tang Phan Chu Trinh.

Phan Chu Trinh là một tấm gương sáng trong phong trào Duy tân đầu thế kỷ 20. Ông là một nhà nho yêu nước có nhiều suy nghĩ tiến bộ. Có thể xem ông là người có tư tưởng dân chủ sớm nhất trong số các nhà nho yêu nước tiến bộ đầu thế kỷ.

Đặc biệt hơn nữa là con đường ông chọn là con đường dấn thân tranh đấu nhưng ôn hòa, bất bạo động. Đây là điểm khác biệt giữa ông và Phan Bội Châu.

Phan Chu Trinh xem vấn đề dân chủ còn cấp bách hơn độc lập và tin rằng có thể dùng luật pháp, cách cai trị có quy củ theo kiểu Âu Mỹ để quét sạch những hủ bại của phong kiến.

Với tinh thần yêu nước nồng nhiệt, suốt đời gắn bó với vận mệnh đất nước, với cuộc sống sôi nổi, gian khổ và thanh bạch, ông xứng đáng để hậu thế ngưỡng mộ.

Tác phẩm

* Tây Hồ thi tập.
* Santé thi tập (gồm hơn 200 bài thơ).
* Thư thất điều (thư vạch 7 tội của vua bù nhìn Khải Định).
* Giai nhân kỳ ngộ diễn ca.
* Tỉnh quốc hồn ca I, II (thơ hiệu triệu, thức tỉnh đồng bào, tạo dân khí mạnh, đề cao dân quyền).
* Trung Kỳ dân biến tụng oan thủy mạt ký.
* Các bức thư gửi Toàn quyền Beau, gửi Nguyễn Ái Quốc, gửi người học trò tên Đông, và các bài diễn thuyết về "Đạo đức và luân lý Đông Tây", về "Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ nghĩa".

Du lịch, GO! - Theo NTO, ảnh internet