(BDT) - Sau cả một mùa mưa dài đằng đẵng, tôi trở về Dào San. Bây giờ là mùa thu, vùng non cao này đón tôi bằng những ruộng bậc thang đang thơm mùi lúa chín...

Sáng sớm hôm ấy, khi mặt trời còn say ngủ, trong bản đã rậm rịch những bước chân, những tiếng nói cười. Mọi người đi gặt từ sáng sớm. Ở quê tôi, một nhà gặt thì cả bản cùng đi giúp. Mỗi cô, bác, mỗi ông, bà trong bộ váy, áo thổ cẩm dày dặn chống nắng, đội chiếc mũ, đi đôi ủng cao, tay cầm cái liềm sắc lẹm, chuẩn bị mang một mùa vàng về bản.

Tôi nhớ ngày xưa, ngày còn nhỏ, tôi hay đứng trên cao gọi mẹ, tìm mẹ ở ruộng bậc thang bên kia. Trong bao cái bóng nhấp nhô, cúi gù người để cắt lúa, tôi vẫn nhận ra mẹ. Dù mẹ vẫn mặc một cái áo xanh quen thuộc của phụ nữ Mông quê tôi nhưng mẹ lại đội một cái mũ nửa xanh nửa trắng vành rộng mà mẹ tiết kiệm may từ đống vải cũ thừa. Tôi thấy mẹ và mọi người ở một tư thế cúi cắt rồi chỉ ngẩng lên xếp lúa thành bó, rồi cứ như vậy, đi hết từng ô ruộng đã chín vàng.

Hết buổi cũng là khi những ôm lúa vàng óng được xếp gọn gàng, chạy dọc theo bờ uốn lượn của những thửa ruộng bậc thang. Nhìn từ trên cao, hình ảnh đó in sâu vào trong tâm trí tôi, đẹp đẽ đến lạ kì. Mẹ như cái chấm nhỏ giữa ruộng nương rộng lớn, đầy sắc màu của hi vọng về sự no đủ.

Nhà tôi cùng bao nhà thường xem thời tiết trước khi gặt, để khi gặt xong thì kịp phơi tại ruộng một hai ngày, rồi đập lúa và phơi thóc ở ngay một khoảnh ruộng bằng phẳng gần đó. Chỉ có những bó lúa để giống cho mùa sau thì tôi thấy mẹ nâng niu, cho riêng vào gùi mang về phơi ở cái noong trước sân nhà. 

Những bó lúa căng tròn, chắc mẩy, vàng óng, đến sợi rơm cũng to đều, bóng đẹp. Mẹ thường dặn chúng tôi là bó lúa giống này quan trọng lắm, nếu để hỏng là cả nhà không có gì ăn vào mùa sau. Cho nên chúng tôi ở nhà, làm gì thì làm cũng phải coi những bó lúa giống cho cẩn thận, canh gà, canh chim và đặc biệt là canh trời mưa.

Có lúc dù mải chơi tù lu hay leo cây trước bờ rào đá thì cứ thấy trời mất nắng hay có mây đen là đứa nào đứa nấy theo phản xạ tự nhiên khác đứng lên, túi bụi bảo nhau khênh hết thóc vào mái hiên. Có lẽ chính vì thế mà trẻ con người Mông chúng tôi, đứa nào tay chân cũng cứng cỏi, khoẻ mạnh từ bé. Đứa nào cũng biết giúp đỡ bố mẹ, tự lập lớn lên và có ý thức từ những việc rất nhỏ. Chỉ cần một lần làm ướt thóc thì thấy tội lỗi lắm. Mẹ sẽ không mắng mà mẹ sẽ khóc. Chúng tôi đứa nào cũng sợ nhà không còn gì ăn mà phải tự có trách nhiệm với nhiệm vụ cao cả của mình.

Những ngày thu hoạch, bố mẹ thường đi từ sáng cho đến khi mặt trời xuống núi mới trở về nhà. Bữa trưa, bố mẹ cùng các cô bác ăn tạm cơm nguội mang theo ngay trên ruộng, dưới một bóng râm nhỏ bé trên ruộng.

Sau này, cứ đến mùa thu hoạch, dù đi làm xa nhưng thế nào tôi cũng trở về nhà giúp mẹ để tuổi già của mẹ đỡ vất vả. Đó là lí do tại sao bản tôi vào mùa gặt lại đông hơn những mùa khác. Thu hoạch rất cần khẩn trương, cần cả sự cố gắng và may mắn, không thì thành quả của cả một vụ lúa có thể bị mất đi. Ở vùng đồng bằng, một năm người nông dân có thể cấy hái nhiều lần. Nhưng ở vùng núi cao này, ruộng bậc thang phải phụ thuộc vào nước. Mà một năm chỉ có một mùa mưa, cho nên một năm chỉ có một vụ lúa. Số lúa có được sẽ giúp nuôi cả nhà trong một năm dài. Nếu không may mất mùa, hoặc chỉ cần thu hoạch lúa không đảm bảo, để ướt, để nảy mầm là cả năm cả nhà chỉ ăn ngô, ăn sắn và rau rừng.

Công cuộc phơi lúa ở vùng rẻo cao này cũng đặc biệt lắm. Ở đồng bằng, người nông dân có thể phơi trên đường, ở sân nhà bằng phẳng, sạch sẽ… Còn người dân quê tôi vẫn hay phơi lúa, thóc ngay trên ruộng như thế này. Bây giờ, cuộc sống tiến bộ hơn, mọi người mua những tấm bạt, những cái cót lớn để phơi chứ không phơi trực tiếp trên ruộng như ngày xưa, bị rơi vãi đi rất nhiều. Lúc thu thóc cũng đỡ vất vả hơn. 

Tôi cứ nhớ ngày xưa, phơi lúa trên ruộng khiến lúa bị rơi rụng nhiều. Mẹ cứ tiếc nên lại đi mót lúa. Chúng tôi cũng vì thương mẹ mà đi mót sau chân mẹ. Cả buổi cũng được đầy cái túi thổ cẩm, đeo lệch cả người. Những chú chim sà xuống trên những thửa ruộng, không biết sợ người, chí chách gọi nhau đến nhặt những hạt lúa ngon lành. 

Mùa lúa chín, cảm giác như các loài chim, loài côn trùng đều vui nhộn. Ngoài ruộng đầy chuồn chuồn, cào cào, chúng tôi không bao giờ hết trò chơi nếu được bố mẹ cho theo ra đồng. Có khi còn đuổi bắt được cả con chuột đồng béo tròn vì ăn thóc suốt từ đầu vụ. Dù bố mẹ tôi còn phải lo cái ăn, cái mặc cho chúng tôi qua bốn mùa, nhưng khi ấy, tôi chỉ biết tuổi thơ của mình thật giàu có và vui vẻ.

Giữa mỗi ruộng bậc thang ở quê tôi hay có những cái lán nương được dựng đơn sơ bằng gỗ, có mái che bằng gianh. Bên trong có một cái chõng tre, bên trên có thể dải một chiếc chiếu lanh do chính những người phụ nữ Mông tự làm. Lán đơn sơ nhưng rất mát mẻ, ở đây có thể đón gió, có thể thấy hương thơm của lúa, thấy những thanh âm của núi rừng. Những cái lán này không chỉ là nơi dừng chân, nghỉ mát, nghỉ trưa của bà con ngày làm đất, ngày cày cấy, ngày thu hoạch. Mà còn là nơi coi lúa mùa phơi lúa.

Bố mẹ thường coi những cái bạt lớn phơi thóc ở ngoài ruộng. Có khi giữa trưa mọi người đang ăn vội bữa cơm mà ai đó hô “có mưa” là ngay lập tức mọi người bỏ bát, bỏ đũa, chạy ra. Mỗi người một chân, một tay, thu cho thật nhanh, cho bằng kịp khỏi cơn mưa giông sắp kéo đến. 

Tiết trời ở xứ này từ thuở hồng hoang chắc vẫn vậy, nên người già đều đã ghi nhớ, truyền lại kinh nghiệm cho cháu con sau này. Đến độ mẹ tôi chỉ cần thoáng một cơn gió, ngửi thấy một làn hương, nhìn một áng mây là đã biết sắp có mưa. Trong cơn chạy thóc, chẳng ai kịp đội khăn, đội mũ, cứ vậy mà chạy ra, mặt ai nấy nhễ nhại mồ hôi. Nhưng chỉ cần cứu kịp thóc là ai nấy cũng vui mừng. Lại ngồi thảnh thơi trong cơn mưa ăn nốt bữa cơm còn dang dở. 

Dẫu bữa cơm tạm ở lán chẳng có gì, nhưng những câu chuyện về mùa vụ đã xua đi tất cả. Chỉ có khi nào chạy thóc không kịp là nhìn mẹ buồn lắm. Trong đôi mắt của mẹ có sự hụt hẫng, có bao lo toan. Mẹ chỉ lo không có tiền nuôi chúng tôi ăn học, không có tiền chữa bệnh cho bố. Thóc vàng đẹp thế thôi mà dính một cơn mưa là xỉn màu, xấu mã, bán đi cũng mất giá. Có những năm mưa mùa thu kéo dài, không phơi lại được nắng nào, cả mấy bao thóc mọc mầm phải đổ cho gia súc ăn…

Tuổi thơ tôi lớn lên như thế. Tiếc thương từng hạt gạo, từng giọt mồ hôi. Thương từng ước vọng của mẹ, trân quý từng hạt gạo bé nhỏ, mà trong tôi, đó chính là những hạt vàng.

Có lẽ cảm giác vui sướng nhất là khi thóc được phơi khô, đóng thành từng bao rồi gùi về bản. Những bao thóc khô được cẩn thận xếp gọn nơi góc nhà hoặc đổ vào bồ đựng thóc. Cả ngôi nhà thơm mùi lúa mới. Những bữa cơm mới dẻo thơm là công sức của bao người, bao ngày, mà vất vả nhất là bố mẹ tôi. Trước khi ăn những bữa cơm gạo mới, bố tôi thường làm lễ cúng cơm mới trước đó để tỏ lòng biết ơn thành kính đối với tổ tiên, trời đất và lại cầu mong một mùa mới mưa thuận gió hoà.

Hình ảnh gùi lúa, gùi thóc về bản, về nhà trong ráng chiều, nó là cái gì đó thật thiêng liêng, hùng vĩ. Những bước chân in dấu trên biên giới, đánh dấu chủ quyền lãnh thổ. Qua bao đời, người nông dân khơi nguồn mạch sống, chinh phục thiên nhiên, dung dưỡng con người cùng với những giá trị văn hoá ẩn chứa trong từng hạt gạo. 

Ở đây, có một nền văn hoá lúa nương, nhịp sống ấy tạo nên tính cách con người, tâm hồn con người xứ núi. Tạo nên cả vị đậm đà của những hạt gạo, chứa trong đó cả tinh hoa của của đất núi, cả sự trong lành, bao la của bầu trời đại ngàn, cả những nhọc nhằn lo toan của mẹ và đôi khi là những lần ướt mưa. 

Nhưng sự sống vẫn sinh sôi, cuộc sống ở xứ núi này vẫn muôn màu. Và tôi đi xa vẫn luôn muốn quay trở lại. Để mỗi lần đứng trước những khuôn ruộng bậc thang lại thấy sự kỳ vĩ, thấy sự khâm phục, thấy cả sự biết ơn về những giọt mồ hôi, những hạt gạo đã nuôi mình lớn.

Theo Thuỳ Giang (Báo Dân Tộc)

Du lịch, GO!

Dào San vào xuân

Hành trình lên cao nguyên Dào San