(BNN) - Đến Sóc Bom Bo hôm nay, cảnh xưa đã đổi, chẳng còn ai giã gạo, nhưng âm vang 'Tiếng chày trên sóc Bom Bo' vẫn còn mãi với thời gian.

< Từ thị trấn Đức Phong, đi thêm 4km nữa sẽ đến sóc Bom Bo.

Từ thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước, đi theo QL14 50 cây số, đến thị trấn Đức Phong, huyện Bù Đăng, rẽ trái đi thêm vài cây số nữa là thấy sóc Bom Bo (nay là thôn Bom Bo, xã Bình Minh, huyện Bù Đăng).

Nơi đây, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đồng bào S’tiêng đã ngày đêm giã gạo nuôi quân, sẵn sàng ăn củ rừng để nhường gạo, nấu ăn bằng nước lọc từ tro cỏ tranh để nhường muối cho bộ đội.

Chứng kiến những hình ảnh này, nhạc sĩ Xuân Hồng đã cho ra đời ca khúc “Tiếng chày trên sóc Bom Bo”, một trong những ca khúc khiến bao thế hệ người Việt rung động.

Bom Bo thay da đổi thịt

Già làng Điểu Lên, 77 tuổi, một trong những anh hùng thời kháng chiến chống Mỹ, kể: “Những năm đầu thập niên 1960, Mỹ - ngụy liên tục càn phá, muốn đẩy dân vào ấp chiến lược để tiêu diệt cách mạng, muốn cắt đứt mối dây liên hệ của người dân với cách mạng. Thấy vậy cả sóc Bom Bo kiên quyết không chịu vào ấp chiến lược. Đến khoảng năm 1963, khi quân địch vây bắt và khủng bố liên miên thì cả già trẻ, gái trai của vài chục hộ dân sóc Bom Bo đã âm thầm băng rừng vượt suối vào căn cứ Nửa Lon để theo cách mạng.

Ở vùng đất mới, bà con bắt tay vào vừa xây dựng lán trại, rồi vừa lao động sản xuất vừa đánh giặc. Thanh niên thì vào bộ đội, đi du kích, làm giao liên, còn phụ nữ và trẻ em thì ngày đêm giã gạo nuôi quân”.

Ngày nay, sau mấy chục năm cần cù dựng xây, sóc Bom Bo đã thay da đổi thịt bằng một tấm áo mới, ngày càng đẹp hơn. Cuộc sống của đồng bào S’tiêng ở đây cũng đổi thay từng ngày.

Sinh ra và lớn lên ở Bom Bo, anh Điểu Té, 33 tuổi, tâm sự, sau khi lấy vợ ra riêng, năm 2017, gia đình anh làm đơn đề nghị và được cấp một căn nhà trong khu bảo tồn. Ngoài cơ ngơi hơn 1,8ha vườn gồm cao su, điều, cà phê đan xen, mỗi năm cho thu nhập hàng trăm triệu đồng. Từ khi Khu bảo tồn được đầu tư xây dựng khang trang, du khách đến tham quan ngày càng đông, vợ chồng Điểu Té tham gia làng nghề ẩm thực phục vụ du khách.

“Trước đây thì nhà cũng khó khăn, nơi đây cũng buồn, từ khi Khu bảo tồn được xây dựng đã giúp thu nhập nhà tôi ngon lắm, có tháng lời cả bảy tám triệu đồng, vui lắm. Hồi tháng 7 năm rồi, nhà tôi được hỗ trợ 300 con gà giống để nuôi, giờ mỗi con nặng hơn 1 ký rồi, khách tham quan muốn ăn là có liền”, Điểu Té cười, nói.

< Già làng Điểu Lên (ngoài cùng bên phải), một trong những người anh của đồng bào S'tiêng ở Bom Bo, đang kể lại những năm tháng hào hùng của sóc Bom Bo.

Gia đình vợ chồng chị Thị Xia, 34 tuổi, cũng là một trong những hình mẫu gia đình trẻ siêng năng, có khát vọng vươn lên và đang có cuộc sống ổn định trong Khu bảo tồn nhờ gắn bó với ngành nghề truyền thống. Với hàng chục năm làm nghề, đến nay chị Thị Xia có thể chế biến đủ loại món ăn theo khẩu vị của đồng bào để phục vụ du khách.

“Từ khi Khu bảo tồn đi vào hoạt động đã giúp bà con Bom Bo có cuộc sống ổn định hơn. Mong khách đến với Bom Bo nhiều hơn để giúp bà con có thêm việc làm, tăng thu nhập”, chị Thị Xia nói.

Ông Phạm Anh Tuấn, Phó giám đốc Ban quản lý Khu bảo tồn văn hóa dân tộc S’tiêng sóc Bom Bo cho biết, Khu bảo tồn là nơi lưu giữ văn hoá truyền thống của đồng bào dân tộc S’tiêng. Đặc biệt, nơi đây còn là nơi tái hiện một phần lịch sử hào hùng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc Việt Nam nói chung và của đồng bào S’tiêng Bình Phước nói riêng.

< Một góc khu bảo tồn Sóc Bom Bo.

“Đến với sóc Bom Bo hôm nay, du khách có dịp nghe già làng kể chuyện, xem vũ điệu múa của người S’tiêng, trai làng múa cồng chiêng bên ánh lửa bập bùng; tham quan làng nghề truyền thống của người S’tiêng như dệt thổ cẩm, rèn, đan lát, chế biến rượu cần. Đặc biệt thưởng thức cơm lam nấu ống tre, uống rượu cần, canh thụt, canh bồi, lá nhíp, đọt mây rừng xào… do chính người bản địa S’tiêng chế biến”, ông Tuấn nói.

Chuyện về “Tiếng chày trên sóc Bom Bo”

Nói về sự ra đời của nhạc phẩm “Tiếng chày trên Sóc Bom Bo”, con gái út của cố nhạc sĩ Xuân Hồng (1928 - 1996), bà Nguyễn Hồng Loan, năm nay 60 tuổi, nguyên cán bộ Hội âm nhạc TP.HCM, cho biết, đương thời, bà thường được nghe cha kể về những năm tháng tham gia kháng chiến và nguồn gốc những ca khúc của ông, đặc biệt là tác phẩm “Tiếng chày trên Sóc Bom Bo”.

< Bà Nguyễn Hồng Loan, con gái cố nhạc sĩ Xuân Hồng hồi ức về ca khúc "Tiếng chày trên sóc Bom Bo" của cha.

Từ những câu chuyện cha bà kể lại và từ những ghi chép trong cuốn “Nhạc và Đời” của cha, thì ý tưởng sáng tác “Tiếng chày trên Sóc Bom Bo” được nhạc sỹ Xuân Hồng ấp ủ trong một thời gian nhiều năm.

Ngay từ khi là một cậu bé chưa cầm nổi cái chày giã gạo cho đến khi trái tim biết rung động, nhạc sĩ Xuân Hồng đã tham gia sinh hoạt giã gạo ở nông thôn. Những ký ức đẹp thời trai trẻ đã theo ông vào tận chiến trường, chưa lúc nào ông từ bỏ ý định viết một bài hát về tiếng chày giã gạo. Trong một dịp tham gia chiến dịch Đồng Xoài, nhạc sĩ Xuân Hồng được đơn vị điều đến sóc Bom Bo để nhận gạo. Lần đầu đến vùng đất Bom Bo, nhạc sỹ Xuân Hồng đã rất ấn tượng về vùng đất, về con người nơi đây. Sau đó, ông có nhiều lần trở lại nơi đây. Như vậy, hình ảnh giã gạo ở sóc Bom Bo chỉ là một nhân tố góp phần để ca khúc ra đời và nhiều cảm xúc hơn thôi chứ không phải khi nhạc sỹ lên sóc Bom Bo, thấy cảnh giã gạo, ý tưởng về bài hát này mới ra đời.

“Cha tôi kể, sóc Bom Bo ngày ấy là một đơn vị hậu phương vững chắc, tập quán của sóc là giã gạo ngày nào ăn ngày nấy và đó là công việc của phụ nữ. Thời điểm những năm 1960 - 1965, cuộc kháng chiến chống Mỹ của quân và dân ta đang bước vào thời kỳ cam go, quyết liệt, bộ đội ta thiếu thốn, khó khăn về mọi mặt. Để giúp bộ đội, những người lớn tuổi trong sóc đã họp bàn và đưa ra khẩu hiệu: “Toàn sóc giã gạo nuôi bộ đội”.

Kể từ đó, già trẻ, gái trai trong sóc đua nhau giã gạo. Đêm xuống, những cặp đôi đứng giã gạo in bóng trong ánh lửa đuốc bập bùng, âm thanh tiếng chày cắc cụp cum… vang vọng núi rừng. Sau rất nhiều lần đến rồi đi, nhiều lần chứng kiến những hình ảnh này, cảm xúc trong lòng nhạc sỹ Xuân Hồng dâng trào, lời bài hát kèm những nốt nhạc cứ thế đến với ông như điều tự nhiên. Năm 1965, cha tôi hoàn thành bản nhạc, nhưng mãi đến năm 1966, ông mới phổ biến ra công chúng.

Khi bài hát vừa phát trên Đài Phát thanh Giải phóng, ca khúc “Tiếng chày trên Sóc Bom Bo” ngay lập tức đã khiến quân dân cả nước xúc động dâng trào, trở thành một bản hùng ca thôi thúc quân dân khắp nơi đánh giặc. Để có tác phẩm “Tiếng chày trên Sóc Bom Bo”, cha tôi đã nhiều lần đến sóc Bom Bo, sống cùng, ăn cùng, ở cùng, làm cùng và gắn bó cùng đồng bào S’tiêng trong một thời gian dài, nhiều lúc bị sốt rét rừng người xanh như tàu lá chuối tưởng chết.

Sau này, tôi cũng đã nhiều lần đến Sóc Bom Bo, cảm nhận được tình cảm người dân nơi đây dành cho cha tôi, họ coi cha như người con của bản làng và vẫn tin: Người đi xa vắng rồi sẽ có ngày/ Về đường này thăm Sóc Bom Bo…", bà Nguyễn Hồng Loan kể.

< Nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết chụp ảnh lưu niệm với già làng Điểu Lên trong một lần đến thăm khu bảo tồn sóc Bom Bo.

Qua các giai đoạn đầu tư, Khu bảo tồn ngày càng khang trang, với những công trình độc đáo của người S’tiêng như nhà dài, nhà lưu giữ làng nghề truyền thống, Nhà sinh hoạt động đồng. Với nhiều hiện vật như bộ đàn đá kỷ lục Việt Nam nặng 20 tấn; bộ cồng chiêng lớn nhất Việt Nam gồm 6 chiêng, 5 cồng có đường kính 2,15m, nặng 600kg.

Năm 2019, Khu bảo tồn đón hơn 17.000 lượt khách, riêng dịp tết đón hơn 3.000 lượt. Năm 2020, mặc dù do ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19 nhưng cũng thu hút khá đông du khách khắp nới đến tham quan.

Theo Phúc Lập (Báo Nông Nghiệp)

Du lịch, GO!