(LĐO) - Đàn bà Xê Đăng trên đỉnh Ngọc Linh không phấn son sặc sỡ, không váy hoa xúng xính nhưng họ sở hữu những cặp mắt xanh, da trắng, tóc vàng. Đàn ông Xê Đăng cao to vạm vỡ, mũi cao, tóc xoăn. Những đứa trẻ Xê Đăng ở đây không khác những đứa con của du khách phương Tây là mấy. Chỉ có điều họ uống rượu như nước và nhai thuốc lá như cơm. Trẻ con lên 10 đã biết ngất ngưởng trong men say rượu cần…

Rượu là nước, thuốc là cơm

Ngọc Linh đón chúng tôi bằng những trận cuồng phong mãnh liệt như trong phim chưởng. Ngọn núi cao 2.592 mét so với mực nước biển được mệnh danh là “mái nhà miền Nam” này chưa một ngày gió ngưng thổi trong mịt mù sương che. Chính sự khắc nghiệt của vùng đất đầy kỳ bí này đã hun đúc cho con người nơi đây một sức sống mãnh liệt để tồn tại cùng thiên nhiên. Không những thế họ còn sở hữu những nét đẹp trời phú rất riêng khiến người vùng khác không khỏi ngỡ ngàng trong ganh tỵ.

Ngày chúng tôi quay gót trở về xuôi từ đỉnh Ngọc Linh trong hành trình khám phá đỉnh núi này cũng đúng lúc nhà của Hồ Văn Điền ở làng Tắk Lang (xã Trà Linh, huyện Nam Trà My, Quảng Nam) cúng rẫy mới sau vụ gieo hạt. Ông Điền là xã đội trưởng nên chịu trách nhiệm dẫn đoàn đi khám phá vì vậy việc ruộng rẫy ông phải nhờ bà con chòm xóm làm giúp.

Chủ nhà đãi cơm tối những người làm công bằng thịt gà với cơm gạo đỏ. Thứ gạo tỉa trên rẫy phải đúng 6 mùa trăng mới thu hoạch, cơm trở nên xơ cứng nhưng đầy dinh dưỡng. Hơn 20 người trong làng, già có, trẻ có, những đứa trẻ mới đang học lớp 5 cũng đã biết ra rẫy tỉa lúa giúp nhau. Ở Tắk Lang không có chuyện trả tiền công hàng ngày mà trả nhau bằng hình thức đổi công. Nhà nào vào vụ lúa cả làng kéo đến tỉa giúp, gia đình này tỉa xong lại kéo sang gia đình khác, cứ thế cho đến khi cái rẫy cuối cùng gieo tỉa xong thì người làng mới chịu gác chày lên bếp.
Dulichgo
Sau bữa cơm tối, dưới ánh đèn mờ mờ trong căn bếp đầy khói, ba ché rượu cần ủ bằng thứ gạo đỏ hoặc hạt kê được mang ra dựng sát vách. Ông Điền người cao lớn sừng sững, mũi cao dỏng dạt đứng ra khấn nguyện. Ông mời già làng Hồ Văn Lên ngồi bên cạnh. Một tay chấm vào ché rượu rồi bôi lên đầu già làng. Miệng ông Điền rì rầm cầu nguyện cho một vụ mùa bội thu, con chim, con chuột không phá rẫy, con chồn, con sóc không cắn hại ngô khoai. Người người trong nhà, trong làng được ấm êm, khỏe mạnh. Xong phần lễ hai người cùng uống rượu. Chủ nhà phải uống trước vì đó là thứ rượu cúng may mắn, người nào quý nhất sẽ được chủ nhà nắm tay dắt đến ngồi cạnh để cùng uống rồi nói chuyện.

Hồ Văn Thành, người làm công cho anh Điền, rót bát rượu to mời khách. Thứ rượu cần được hút sẵn để trong một can nhựa lớn bên cạnh những chum ché ngổn ngang. Mới 24 tuổi nhưng Thành khoe đã có vợ 3 con. Đưa bát rượu ngang mặt, Thành bảo: “Tục ở làng nếu mời khách thì cạn bát mới thật lòng. Sáng giờ lên rẫy bọn em làm hết 5 lít rồi. Uống đi xem rượu của đồng bào có ngon hơn rượu dưới xuôi không”. Khách uống xong, Thành tự rót cho mình một bát đầy rồi uống cạn. Thành cho biết khi ra rẫy dù nước có thể thiếu nhưng can rượu bên hông lúc nào cũng có. “Cứ thấy khát là châm rượu vào, thế mới vui, làm mới mạnh” - Thành hồ hởi khoe.

Những người phụ nữ cũng bắt đầu vào cuộc. Họ uống say sưa thỉnh thoảng móc từ lưng quần ra một ống nứa nhỏ đựng bột thuốc lá xoay nhuyễn mời nhau. Từng ngụm thuốc bột màu xám bỏ vào miệng nhai kỹ trong kẻ răng rồi nuốt lấy nước. Ông Điền bảo: “Ở đây thuốc lá tự trồng mà ăn. Rượu tự làm mà uống nên chẳng sợ điều gì. Người Xê Đăng có thể thiếu áo quần, gạo mắm nhưng thuốc và rượu thì không. Hút thuốc không tốt cho sức khỏe. Mình chỉ ăn thuốc thôi. Ăn mới ngon!”.

Những đứa trẻ cũng mời nhau rượu, chúng uống sau những người lớn bằng những ché riêng cho mình. Không đứa nào nhăn nhó, từng giọt rượu trôi qua cổ ngọt xớt. Chỉ trong chốc lát ché rượu cần đã cạn, nước liên tục được châm vào. Bà Lượng, mẹ anh Điền giải thích cho khách: “Ở đây con gái uống từ lúc lên 9, lên 10. Không uống rượu thì khó lấy chồng lắm. Ai cũng uống hết. Uống mới vui!”. Thấy chúng tôi nhìn có vẻ ngạc nhiên, những đứa trẻ hú hí nhau cười rồi quay mặt nơi khác. Cứ thế chúng múc từng chén nước lạnh đổ vào hũ rượu cần rồi quay quần nói cười tít mắt. Bếp lửa giữa nhà vẫn tanh tách cháy sưởi ấm những khuôn mặt đỏ hây hây trong men cay.
Dulichgo
Chị Tình, người Tam Kỳ lên dựng hàng quán ngay đầu dốc vào cổng làng Tắk Lang bán tạp hóa. Thứ bán đắt đỏ nhất của cửa hàng là rượu gạo. Làng có 67 nóc nhà với gần 300 người dân nhưng mỗi ngày chị Tình bán ra gần 90 lít rượu. Chưa kể nhà nào nhà nấy lúc nhúc những chum ché đang chứa rượu cần chuẩn bị sẵn. “Bán nợ cũng phải bán, nửa đêm gà gáy cũng phải thức dậy bán, nếu không họ kêu cửa suốt đêm. Có điều người dân cũng hiền. Đến mùa thu hoạch sâm nhà nào chưa trả tiền kịp thì mang sâm ra trừ nợ” - chị Tình tâm sự.

Người Tây trên đỉnh núi

Trong men rượu ngà ngà say, ông Điền kể rằng muốn lấy vợ khác nhưng chưa có ai xinh đẹp như vợ mình nên ông chưa chọn. Hơn nữa vì thương con nhỏ nên thôi. Vợ ông Điền qua đời năm trước bởi căn bệnh ung thư. Chỉ tay vào hai đứa con gái ngồi sát bếp, ông Điền bảo: “Nhìn nó thì biết vợ mình!”. Hai đứa trẻ tóc vàng hoe, suôn mượt, da trắng đôi mắt xanh lơ lớ đang ngồi sưởi ấm. Ông Điền bảo vợ của ông ngày trước cũng vậy. Người cao dong dỏng, tóc vàng, da trắng dù cho suốt ngày phơi nắng trên nương. Bản thân ông Điền cũng vậy, là người thiểu số nhưng ông cao gần 1,8m. Râu quai nón vạm vỡ hẳn hoi. Anh em bà con của ông ai cũng thế, cao lớn oai phong lừng lững giữa núi rừng. “Ở làng này rất nhiều người cao to, mắt xanh, tóc vàng da trắng như vậy. Mình không biết vì sao nhưng thấy cũng vui” - ông Điền nói.

Ông Điền kể rằng gốc gác của ông từ bên kia của đỉnh Ngọc Linh thuộc xã Mường Hoong, huyện Đắk Glei, tỉnh Kon Tum. Bà ngoại của ông có quen những người Pháp viễn chinh đóng quân ở những đồn bốt gần đó rồi mẹ ông cũng tóc vàng, đến ông và các con của ông cũng vậy. Vợ ông cũng sinh ra trong một gia đình như thế nên cô ấy sỡ hữu những nét đặc trưng rất riêng biệt tại cánh rừng này. Khi chiến cuộc xảy ra một nhóm người Xê Đăng “chạy tây” cứ tiến dần về đỉnh Ngọc Linh để lánh nạn.
Cuộc di dân cứ thế kéo dần qua bên kia núi về hướng bắc để đến địa phận Nam Trà My của Quảng Nam bây giờ. Hiện tại, hàng năm người Xê Đăng ở Ngọc Linh thuộc Quảng Nam vẫn tìm cách cắt rừng đi xuyên qua eo núi để về thăm lại bà con quê xưa. Một con đường mòn bí hiểm mà không phải người nào cũng biết, người Kinh càng dễ đi lạc nếu khám phá nơi này.

Nhấp chén rượu cần, ông Điền kể tiếp: “Ở đây mỗi lần đi thăm bà con khó lắm. Cung đường xuyên rừng cũng trần ai dễ đi lạc bởi thứ hương rừng có mùi ngai ngái làm cho người đi đường cảm giác như bị say và mất phương hướng” . Ông Điền còn khoe rằng ở bên kia sườn núi Ngọc Linh, nơi bà con xưa cũ của ông trú ngụ, những người đàn bà vẫn đẹp một cách hoang dại với những nét rất tây.
Dulichgo
Ở Ngọc Linh những người lớn còn khó tìm ra nét đẹp riêng của họ, nhưng những đứa trẻ vừa lên 6 lên 10 rất dễ nhận ra điều đó. Cô giáo Trần Thị Tình, dạy lớp 2 ở điểm trường tiểu học Ngọc Linh thuộc thôn 3, xã Ngọc Linh bảo chúng tôi rằng có những đứa trẻ ở lớp cô dạy trông rất lạ.

Nhiều năm công tác ở đây nhưng năm nào các đứa trẻ cô dạy cũng đều có những cháu rất xinh xắn và đáng yêu. Chúng chẳng giống trẻ con vùng núi khác mà sở hữu những nét rất tây xinh xắn một cách khác thường. Em Hồ Văn Vúi, lớp 2/6, trông trội hẳn so với các bạn cùng lớp. Cậu bé có nụ cười rất duyên với sống mũi cao và tóc vàng lơ thơ. Thấy chúng tôi đưa máy ảnh bấm, cậu bé nhoẻn miệng cười: “Do phơi nắng nhiều nên tóc cháu vàng đấy!”. Nhưng cô Tình lại bảo: “Thứ tóc vàng đặc trưng của bà con ở đây không phải nhuộm mà có cũng không có thứ dầu gội nào tạo nên. Chắc trời cho!”.

Em Hồ Thị Lệ, lớp 1/6 của nhà trường cũng vậy. Giờ múa hát cô bé luôn được các bạn bè yêu quý bởi cô rất giống một con búp bê xinh đẹp lạ thường. Thầy Hồ Văn Hùng, người dạy học ở đây gần 20 năm cho biết năm nào cũng có, thế hệ nào cũng có rất nhiều học sinh như vậy. Không những ở điểm trường Tắk Lang mà ngay ở điểm trường chính tại Trường tiểu học bán trú Ngọc Linh cũng có hàng chục học sinh như thế.

Theo Cà Tan (Lao Động)
Du lịch, GO!