(DVO) - Hang Hổ nằm ngay hòn núi tiếp giáp dãy Trường Sơn, ở độ cao 100m so với mặt biển, thuộc thôn Phú Liên, xã An Phú, TP.Tuy Hòa, Phú Yên. Xung quanh hang Hổ có rất nhiều chuyện ly kỳ hấp dẫn

Kỳ bí hang Hổ

Trong quá trình hỏi đường lên hang Hổ, nhiều người nhìn tôi ái ngại. Dù sẵn lòng chỉ đường, nhưng họ luôn miệng khuyên: “Từ đây lên đó không xa lắm, nhưng nếu không có người dẫn đường thì khó mà tìm đến hang Hổ được”. Hỏi mới biết, chính họ cũng không hiểu vì sao, dù cách khoảng 2km và nhìn lên có thể thấy nhưng những người nếu không thường xuyên lên xuống hang Hổ, thì sẽ không tài nào tìm đến hang được.

Ban đầu chúng tôi cứ nghĩ rằng họ… “hù” người lạ, nhưng sau mười mấy phút theo chân anh Nguyễn Chí Quốc (29 tuổi, người thôn Phú Liên) để chinh phục hang Hổ thì chúng tôi mới thay đổi suy nghĩ: họ nói đúng.

Nhiều lúc, thấy hang Hổ chỉ còn cách khoảng vài trăm mét. Nhưng đi một đoạn nữa thì lại thấy xa mịt mùng! Cái khoảng cách xa gần ấy hoán đổi nhau như lũ trẻ chơi trò ú tìm. Người thanh niên dẫn đường giải thích rằng, đó có thể là do đường lên hang Hổ phải quanh co, luồn lách nhiều bụi rậm nên gây ảo giác như thế. Có thể là còn những nguyên nhân khác, nhưng khi chúng tôi hỏi, thì anh Quốc chịu, chỉ khẽ lắc đầu bảo: “Chắc là do mấy chuyện linh tinh ấy mà…”.

Sau hơn nửa tiếng đồng hồ leo núi, chúng tôi đến được “địa phận” của hang Hổ. Tuy nhiên, cả hai không thể nào tiếp cận được hang bởi dây leo, cây rừng chằn chịt đã “phong tỏa” mọi con đường đến hang. Anh Quốc bảo: “Cách đây khoảng chục năm, vô hang dễ vì người ta đã chặt hết rừng bạch đàn, giờ trồng rừng lại nên mới rậm rạp thế này”.

Thật ra, không nhiều người biết chuyện về hang Hổ, lớp người biết chuyện thì không còn nhiều và hầu như quên bén đi. Chúng tôi biết hang Hổ nhờ tình cờ đọc cuốn Tìm hiểu địa danh qua tục ngữ ca dao Phú Yên của tác giả Nguyễn Đình Chúc, có đoạn miêu tả hang Hổ như sau: “…Những cụm đá ở đây hình như được tạo hóa dày công sắp xếp nhỏ lớn theo dãy núi. Mỗi cụm là một cái hang ăn sâu vào lòng đất, có thể chứa 2 – 5 người. Hang lớn nhất là hang Hổ chứa được từ 30 – 40 người. Hang cao đến 5m, đi đứng qua lại dễ dàng.

Trong hang có nhiều tảng đá bằng có thể ngồi, nằm thuận tiện. Phía trước có một hòn đá ba cạnh đứng thẳng, đỉnh nhọn gọi là tảng đá Giáo và giống đá thiên nhiên với đường kính 3m. Cấu tạo hang Hổ rất đặc biệt. Mới nhìn ta cứ tưởng thời xa xưa có ông khổng lồ bê từng tảng đá chồng lên nhau, tạo thành hang mà dừng chân. Cửa hang lại có một tảng đá nhỏ nhô lên như cái bình phong, chia thành hai lối đi tả hữu”. Trao đổi với tác giả cuốn sách trên, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Chúc cho hay, có một số tài liệu miêu tả hang Hổ như một sự sắp đặt. “Đó là có người khổng lồ dựng hai tảng đá hai bên, tựa vào lưng núi. Sau đó bê thêm một tảng đá lớn làm mái che, tạo thành hang Hổ”.

Ông Nguyễn Phụng Kỳ (72 tuổi, người thôn Phú Liên), một trong số ít những du kích chống Mỹ từng sống hai năm ở hang Hổ, cho biết: “Hồi tôi lên ở hang Hổ thì trong hang tuy rộng nhưng phải khom người mới vào được, trong ấy rất bằng phẳng và chỉ có đất, chứa được khoảng hai tiểu đội. Phía trước hang thì đá lởm chởm, hai bên là dây rừng, bụi gai.

Xung quanh hang Hổ còn có mấy hang nhỏ nữa. Hang Hổ khi ấy có thể chứa được hai tiểu đội, khoảng trên 20 người. Còn những hang nhỏ xung quanh, là nơi ẩn nấp an toàn của vài ba du kích trước làn đạn của kẻ thù”. Ông Kỳ cũng cho hay, không hiểu do địch ném bom sai vị trí, hay được thần linh “giúp đỡ” mà khi Mỹ thả bom, mọi người vẫn an toàn trong hang Hổ. Những năm gần đây, lãnh đạo thường hay tổ chức các chuyến về nguồn. Tuy nhiên, nhiều du kích từng sống dưới hang Hổ năm xưa không thể vào lại được nơi từng che chở mình, bởi cây rừng đã bít hết lối đi.

Thầy tu thuần phục hổ dữ

Do hang Hổ bị phong tỏa bởi cây và dây rừng nên chúng tôi buộc phải hạ sơn, anh Quốc dắt chúng tôi đến một hồ nước, trước đây có tên là đập Lỗ Ân, do chiến tranh tàn phá nên những dấu tích của cái đập không còn nữa. Từ dưới đập Lỗ Ân, dễ dàng thấy một tảng đá màu đen, phía trước và hai bên tảng đá này bị “vây” bởi rừng bạch đàn. Anh Quốc cho biết dưới tảng đá ấy chính là hang Hổ. Thời kháng chiến, hang Hổ chính là nơi ẩn nấp của du kích, căn cứ giao liên giữa hai miền xuôi ngược. Địch dù biết nhưng chỉ dám đánh từ xa chứ không dám lại gần, bởi địa thế có lợi cho du kích.

Hang Hổ trước kia có tên gọi là hang Chùa, nguyên nhân của cái tên là do có một vị thầy tu (không rõ thời nào) đến sống ẩn dật, tu hành. Ông Nguyễn Phụng Kỳ, một trong số ít những người biết chuyện về hang Hổ, kể: “Có nhiều giai thoại về vị thầy tu này. Có người nói rằng ông nhờ khổ tâm tu luyện mà đắc đạo và có nhiều phép thuật. Nhờ phép thuật cao siêu mà vị chân tu này đã hoán cải lũ hổ dữ, khiến chúng trở nên hiền từ. Lại có người cho rằng ông giỏi thuần phục thú dữ, thân lại mang võ công cao nên ông dùng để “trị” hổ”. Cả hai câu chuyện mà ông Kỳ kể, đều được đề cập trong cuốn sách của nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Chúc.

Đúng như tên gọi, trước khi thầy tu này đến, hổ sống rất nhiều ở trong và xung quanh hang. Ngày ngày, dân sống dưới chân núi luôn khiếp sợ bởi tiếng gầm rú ghê rợn của các “ông ba mươi”. Không ít người, vì mải mê săn bắn thú rừng mà bỏ mạng dưới nanh vuốt của hổ dữ. Từ ấy, dân quanh vùng không ai “cả gan” mà bén mảng đến gần hang hổ. Mãi cho đến khi thầy tu xuất hiện và sống ở đó, người dân mới an tâm làm rẫy, săn thú gần hang Hổ.

Sở dĩ có chuyện này là vì, theo lưu truyền, vị thầy tu này đã làm cho bầy hổ trở nên “thân thiện” với người dân và không bao giờ giết hại họ. Thậm chí, người ta còn thấy vị thầy tu và bầy hổ sống chung với nhau một cách rất vui vẻ. Và để nhớ ơn, khi ông qua đời, dân lập miếu thờ ông Tạ Từ ngay trong hang, nay đã không còn dấu vết. Khi vị thầy tu mất, thì hổ lại tái “chiếm” hang, những bầy hổ bỏ đi nơi xa cũng quay trở lại. Lần trở lại này, bầy hổ trở nên hung dữ và manh động hơn trước. Dân trong vùng, vì muốn sống yên ổn nên tổ chức thanh niên trai tráng, những người giỏi võ để giết hổ.

Ai oán hồ “than thở”

Lại nói về hồ nước (tức đập Lỗ Ân) trước hang Hổ, có người cho rằng hang Hổ cũng góp nước cho hồ này. Sau năm 1975, dân đắp thành đập để phục vụ làm nông nghiệp, nay đã hư hỏng hoàn toàn. Trước đó, hồ nước này gắn liền với vài câu chuyện tình đầy ngang trái. Ví như chuyện có đôi trai gái yêu nhau thắm thiết, thề non hẹn biển đợi ngày nên nghĩa phu thuê. Nào ngờ cô gái thay lòng, hám giàu mà lấy một phú ông góa vợ.

Chàng trai quá đau khổ, lên hang Hổ ngồi khóc đến nỗi nước mắt chảy thành dòng suối rồi tạo thành hồ nước. Ngày nay vẫn còn câu ca dao “Tiếng đồn hang Hổ nhiều beo/ Có vài giạ lúa nó theo ầm ầm”. “Nó” là ý nói những cô gái thay lòng. Lại có chuyện rằng, hang Hổ là nơi tình tự, hẹn hò của những đôi trai gái yêu nhau. Khi đường tình duyên trắc trở, những kẻ “thất tình” tìm đến nơi này để gom góp kỷ niệm của ngày nồng ấm. Rồi khóc than cho cuộc tình lỡ, có lẽ có quá nhiều mối tình dang dở mà nước mắt thành hồ nước to lớn. Cũng vì vậy mà hồ nước này được ví như hồ “than thở”. Và đây là một trong số ít câu ca dao nói về chuyện này: “Lời thề hang Hổ ngày nào/ Ai mà phụ bạc, trên cao có trời”.

Xung quanh hồ nước có vùng đất tương đối bằng phẳng, lại có một phiến đá lớn, mặt đá tương đối bằng phẳng. Theo anh Nguyễn Chí Quốc, ngày nay trai gái hay đám thanh niên vẫn thường đến đây để vui chơi, dù đường đi hơi trắc trở. Thỉnh thoảng, khi những cơn gió thổi ngược chạm vào mặt núi, những người làm rẫy gần đấy thường nghe những thanh âm như tiếng thổn thức. Họ cho rằng đó là những cung bậc nỉ non, ai oán của những kẻ lỡ đường tình duyên.

Trong tương lai gần, người ta sẽ ngăn đập nhằm ổn định nguồn nước tưới cho nông dân xã An Phú và các vùng lân cận. Hiện tại, khi hang Hổ vẫn còn bị phong tỏa thì những câu chuyện trên vẫn còn hiện hữu trong tâm trí người dân sống ở đây.

Theo Lý Sơn (Dòng Đời)
Du lịch, GO!