Đền Đô, nơi thờ các vị vua nhà Lý, nằm trên vùng đất địa linh nhân kiệt: làng Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội gần 20 km về phía bắc.

< Thủy đình tại Đền Đô.

Do ngày xưa thuộc địa phận hương Cổ Pháp, châu Cổ Pháp nên Đền Đô còn được gọi là đền Cổ Pháp. Làng Cổ Pháp là nơi phát tích của triều đình nhà Lý, kéo dài hơn 200 năm. Đền Đô thờ tám vị vua đầu tiên của nhà Lý nên còn có tên là đền Lý Bát Đế.

Sử sách ghi lại, năm 1010, sau khi lên ngôi Hoàng đế, Lý Công Uẩn trở về thăm quê nhà Cổ Pháp. Dân làng Đình Bảng đã xây dựng một ngôi nhà lớn làm nơi nghênh tiếp nhà vua.


< Chính Điện.

Khi Lý Công Uẩn băng hà (1028), Lý Thái Tông kế vị vua cha đã cho sửa sang lại ngôi nhà xưa làm nơi thờ tự vua cha và cũng từ đó, đền trở thành nơi thờ tự các vị vua nhà Lý sau khi băng hà.

Trong thời kỳ bị tạm chiếm, quân Pháp đã phá hủy nhiều di sản văn hóa ở Cổ Pháp. Năm 1952, máy bay Pháp dội bom, phá hủy hoàn toàn Đền Đô. Đến năm 1989, Đền Đô được xây dựng lại, theo đúng hình dáng và kiến trúc cũ mà các nhà nghiên cứu lịch sử đã phác thảo, căn cứ vào dấu tích còn lại và các tài liệu lưu trữ.

Toàn bộ khuôn viên Đền Đô rộng hơn 30 ngàn mét vuông, với trên 20 hạng mục công trình, chia thành hai khu vực: nội thành và ngoại thành. Cổng vào nội thành gọi là Ngũ Long Môn vì trên hai cánh cổng có chạm khắc hình năm con rồng. Khu vực nội thành có kiến trúc theo kiểu “nội công ngoại quốc”. Tường gạch bao quanh cao ba mét, rộng một mét, hai bên xây gạch, giữa đổ đất. Trung tâm của Đền Đô là khu chính điện trang nghiêm, với các nét chạm khắc tinh xảo. Tại đây có điện thờ vua Lý Thái Tổ quanh năm nghi ngút khói hương.

< Chiếu dời đô của vua Lý Thái Tổ.

Phía bên trái điện thờ là Chiếu dời đô của Lý Thái Tổ. Thật thần kỳ: cả chiếu có đúng 214 chữ, ứng với 214 năm trị vì của tám đời vua đầu tiên của nhà Lý. Phía bên phải là bài thơ nổi tiếng của Lý Thường Kiệt: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư…”. Phía sau ngôi chính điện là hậu cung, nơi đặt ngai thờ, bài vị và tượng của tám vị vua nhà Lý. Mỗi người một vẻ, trang trọng, oai nghiêm. Phía trong còn có nhà chuyển bồng, kiến trúc theo kiểu chồng diêm tám mái, tám đao cong mềm mại; nhà tiền tế; nhà để kiệu thờ; nhà để ngựa thờ.

Đặc biệt, phía đông đền có nhà bia, nơi đặt bia đền Cổ Pháp. Tấm bia đá này cao 190cm, rộng 103cm, dầy 17cm, được khắc dựng năm Giáp Thìn (1605), do tiến sĩ Phùng Khắc Khoan soạn văn bia, ghi lại sự kiện lịch sử nhà Lê xây dựng lại Đền Đô và công đức của các vị vua triều Lý.

< Cổng vào Đền Đô.

Khu bên ngoài đền gồm thủy đình, phương đình (nhà vuông), nhà chủ tế, nhà kho, nhà khách và đền vua Bà (thờ Lý Chiêu Hoàng, còn gọi là đền Rồng). Hai bên tả hữu đền là nhà văn chỉ (thờ các quan văn) và võ chỉ (thờ quan võ) tiêu biểu nhất trong suốt 216 năm của vương triều nhà Lý. Thủy đình dựng trên hồ bán nguyệt, rộng năm gian, cũng có kiến trúc chồng diêm tám mái, tám đao cong. Đây là nơi để các chức sắc ngày trước ngồi xem biểu diễn rối nước. Thủy đình Đền Đô xưa đã được Ngân hàng Đông Dương thời Pháp chọn làm hình ảnh tiêu biểu in trên tờ giấy bạc 5 đồng.

Với khung cảnh hữu tình, cây cối xum xuê râm mát, Đền Đô xứng đáng với lời ca ngợi từ ngàn xưa: “Đền Đô kiến trúc tuyệt vời. Thăng Long đẹp đất, đẹp người ngàn năm”. Đó là lý do Đền Đô luôn là một địa chỉ du lịch hấp dẫn du khách trong nước và quốc tế.

Du lịch, GO! - Theo Theo Giao Thúy (Phunuonline)